undefinedLàng Lan Đình nằm về phía bắc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, cách trung tâm huyện lỵ Gio Linh khoảng 2km. Vị trí địa lý của làng rất thuận lợi với phía bắc giáp thôn Gia Môn, phía nam giáp thị trấn Gio Linh, phía tây giáp thôn Tân Lịch (xã Gio Bình) và phía đông giáp sông Cánh Hòm.Lịch sử hình thành của Lan Đình khá sớm trên vùng đất Quảng Trị, thông qua các chính sách di dân, mở mang lãnh thổ về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Tên gọi ban đầu của làng là Hương Da, được ghi chép trong sách “Ô Châu cận lục” của Dương Văn An (1555) như một trong 65 xã thuộc châu Minh Linh, phủ Tân Bình. Dựa trên gia phả của các dòng họ lớn trong làng như Trần, Nguyễn Văn, Nguyễn Đình (khoảng 19 - 20 đời, tương đương gần 500 năm), có thể khẳng định làng xã Hương Da/Lan Đình ra đời vào khoảng đầu thế kỷ XV.Ảnh: Làng Lan Đình với nghề đan lát được gìn giữ qua bao đời nayQua các triều đại, tên làng đã có nhiều thay đổi:Thời các chúa Nguyễn: Đổi thành Hương Đình, thuộc tổng An Xá, huyện Minh Linh, phủ Quảng Bình theo ghi chép của Lê Quý Đôn.Triều vua Minh Mạng (1835): Làng Hương Đình thuộc huyện Địa Linh.Thời vua Đồng Khánh (1886): Huyện Địa Linh đổi thành Gio Linh, làng Hương Đình thuộc tổng An Xá, huyện Gio Linh.Triều vua Khải Định: Tên gọi Hương Đình được đổi thành Lan Đình.Sau Cách mạng tháng Tám, Lan Đình là một trong 9 làng thuộc xã Linh Phong. Trong kháng chiến chống Pháp, Lan Đình thuộc xã Linh Châu. Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, thôn Lan Đình thuộc xã Gio Lễ, quận Gio Linh. Sau ngày đất nước thống nhất, thôn Lan Đình thuộc xã Gio Phong, huyện Gio Linh cho đến ngày nay.Nguồn gốc dân cư Lan Đình chủ yếu từ vùng đất Thanh - Nghệ - Tĩnh vào. Người có công khai lập làng và được dân làng tôn thờ là Ngài khai khẩn có tước hiệu Thị Anh Bá Tôn Thần (gốc Thanh Hóa). Hàng năm, dân làng lấy ngày 1 tháng 2 âm lịch làm lễ tế và tảo mộ để ghi nhớ công ơn của ông. Ngoài ra, 7 người đứng đầu các họ được phong thờ làm hậu khai canh gồm: Trần Quý Công, Nguyễn Văn Ngút, Trần Công Luận, Nguyễn Đình Lãnh, Trần Công Khanh, Nguyễn Văn Đâu và Nguyễn Văn Lư.Trải qua hàng trăm năm phát triển, làng Lan Đình vẫn giữ vững nét văn hóa đặc trưng của một vùng quê thuần nông, sống chủ yếu dựa vào nghề trồng lúa và hoa màu. Với đặc tính cần cù, chịu khó, cư dân Lan Đình đã sáng tạo nghề đan lát để vừa phục vụ nhu cầu cuộc sống, vừa kiếm thêm thu nhập trong những lúc nông nhàn.Mặc dù không có tài liệu cụ thể về thời gian ra đời chính xác, nhưng theo lời kể của các cụ cao niên, nghề đan lát đã xuất hiện cùng thời với sự thành lập của làng. Từ đó, các thế hệ con cháu Lan Đình đã nối tiếp nhau truyền nghề, tạo ra vô vàn sản phẩm tiện ích cho nhà nông. Nhờ vậy, nghề đan lát truyền thống này vẫn được duy trì và phát triển cho đến ngày nay.Ảnh: Cái nghề đi lên cùng với sự phát triển của ngôi làngNguyên vật liệuViệc lựa chọn nguyên vật liệu là khâu cực kỳ quan trọng, quyết định đến độ bền và tính thẩm mỹ của sản phẩm. Tre là loại nguyên liệu chính được chọn để làm nên những sản phẩm đan lát thủ công của làng Lan Đình. Tre là loại cây dễ thích nghi, dễ trồng, đặc biệt ở Lan Đình với địa hình đồi đất đỏ bazan, người dân còn trồng tre ở rìa làng hoặc nơi địa hình cao để giữ đất, tạo nguồn nguyên liệu dồi dào tại chỗ.Theo kinh nghiệm của người Lan Đình, thời điểm khai thác tre tốt nhất là vào tháng giêng, tháng hai vì lúc này tre ít bị mối mọt. Cây tre được chọn phải có thân thẳng, đốt dài, thưa mắt, đủ độ già và không bị mối mọt. Những cây tre bị ngã đổ hoặc gãy ngọn sẽ không được chọn vì chúng bị xốp, dễ bị mọt và kém bền.Tùy theo loại sản phẩm mà người thợ chọn loại tre phù hợp:Tre lồ ô: Với đốt dài, ít mắt, dễ chẻ và dễ đan, thường được dùng để đan sàng, dần, trẹt, nôống, nẽn.Tre già: Đặc ruột và đốt dày, mắt nhiều, được chọn để đan thúng.Sau khi chặt và đưa về nhà, tre được cưa thành từng đốt theo kích thước sản phẩm. Phần gốc tre thường được dùng làm vành/nẹp vì đặc, thân tre dùng để đan, ngọn tre ruột mỏng hơn nên dùng để đát.Loại hình sản phẩmCác sản phẩm đan lát thủ công của Lan Đình vô cùng phong phú và đa dạng, phục vụ nhiều nhu cầu khác nhau:Phục vụ sinh hoạt hàng ngày: Rổ, rá, trẹt, gàu, kiềng, nôi...Phục vụ đánh bắt: Oi, nò, nơm...Phục vụ sản xuất nông nghiệp: Thúng, mủng, dần, sàng, nẽn, nôống...Ảnh: Đa dạng các loại hình sản phẩm ra đời dưới bàn tay của các nghệ nhânQuy trình chế tác sản phẩmMỗi sản phẩm thủ công từ tre ở Lan Đình đều trải qua các công đoạn tỉ mỉ, đòi hỏi sự kiên nhẫn và tay nghề cao của người thợ: chẻ, vót, đan, đát, lận/nẹp, nức.Chẻ nan: Tre được cưa thành đốt, sau đó chẻ nhỏ thành các nan tre. Tùy sản phẩm, nan tre có độ dày mỏng khác nhau. Đối với thúng, nôống, nẽn, rổ, rá, nan tre thường chẻ dọc cả ruột và cật. Với sàng, dần, trẹt, nan tre được tách riêng phần cật và ruột (cật dùng đan sàng, dần; ruột dùng đan trẹt).Vót nan: Đây là công đoạn đòi hỏi sự khéo léo. Người thợ dùng vải quấn quanh ngón tay trỏ, tì nan tre vào ngón tay để vót. Yêu cầu nan tre phải trơn bóng và đều nhau để đảm bảo chất lượng và thẩm mỹ. Nan tre sau khi vót sẽ được phơi nắng hoặc hong qua lửa cho khô ráo.Đan: Công đoạn này nhẹ nhàng nhưng cần sự tỉ mỉ, đều tay để tạo ra những đường đan sắc nét. Bất kỳ sản phẩm nào cũng được chia thành 3 phần: vành, thân và đáy. Người thợ bắt đầu đan từ giữa lòng sản phẩm rồi mở rộng dần. Các kiểu đan tre phổ biến bao gồm:Đan lồng 1 (lồng đơn): Bắt 1 đè 1 (dùng cho rổ nhỏ hoặc rá).Đan lồng 2 (lồng đôi): Bắt 2 đè 2 nan tre (dùng cho rổ lớn).Đan lồng thúng: Bắt 2 đè 3 bắt 4 (dùng cho thúng, mủng). Đây là kiểu đan khó nhất.Đan lồng thia: Bắt 2 đè 5 (dùng cho nẽn).Đát: Sau khi có tấm đan cơ bản, người thợ dùng các nan tre nhỏ hơn để đát ở 4 phía xung quanh, tạo độ cứng cho phần thân sản phẩm. Nan tre dùng để đát được chẻ nghiêng cả cật và ruột, vót nhẵn để tạo độ bóng và thẩm mỹ.Lận (nẹp vành): Công đoạn này thường do các nghệ nhân có thâm niên và chuyên nghề thực hiện, đòi hỏi sức khỏe và sự mạnh tay để hoàn thiện những chiếc vành tròn đẹp. Sản phẩm có hai vành: vành trong và vành ngoài. Người thợ đặt vành trong vào lòng sản phẩm, vành ngoài phía dưới, dùng chân đạp tấm đan xuống và kéo vành ngoài kẹp chặt vào vành trong. Sau đó, dùng đục nhọn chui lỗ và dùng lạt buộc chặt miệng vành, đảm bảo khoảng cách giữa các múi lạt cân đối, vành khít và chắc chắn.Nức: Là công đoạn cuối cùng, đòi hỏi sự cẩn thận trong từng đường khâu để khoảng cách đều nhau. Trước đây dùng mây, nay thay bằng sợi cước. Có 2 kiểu nức:Nức thắt: Mỗi nút nức được rút cố định bằng một múi thắt. Kiểu này chắc chắn hơn, nếu sờn đứt một múi sẽ không ảnh hưởng đến các múi khác, thường áp dụng cho sản phẩm chịu nặng cao như thúng, dần, sàng.Nức tuột: Chỉ thắt cố định múi cuối cùng của sợi cước.Ảnh: Các thành phẩm đều được hoàn thiện một cách chỉn chu nhấtNhư vậy, để hoàn thiện một sản phẩm thủ công từ cây tre, người thợ làng Lan Đình phải trải qua đầy đủ các khâu: Chọn tre, cưa tre, chẻ nan, vót nan, đan, đát, lận, nức. Mỗi khâu đều là sự tâm huyết và lòng kiên nhẫn, tạo nên giá trị độc đáo của ngành nghề thủ công truyền thống này.Với nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, các sản phẩm thủ công đan lát Lan Đình được bán với giá phải chăng, phù hợp với người tiêu dùng. Đặc biệt, người dân Lan Đình không sử dụng hóa chất trong sản xuất hay bảo quản, đảm bảo an toàn và thân thiện. Điều này giúp các mặt hàng đan lát nhanh chóng đáp ứng nhu cầu thị trường và dần đứng vững trong và ngoài tỉnh. Sản phẩm được người buôn thu gom và đưa đi bán tại chợ Phiên (Cam Lộ), chợ Đông Hà, chợ Do (Vĩnh Tân) và các chợ huyện khác trong tỉnh.Mặc dù chủ yếu là nghề tận dụng thời gian nông nhàn, thu nhập từ nghề đan lát đã góp phần không nhỏ vào đời sống kinh tế của bà con. Theo chia sẻ của người thợ địa phương, thu nhập bình quân mỗi gia đình làm nghề khoảng 4 triệu đồng/tháng – một khoản tiền tuy không lớn nhưng đủ để trang trải thêm cho cuộc sống.Tuy nhiên, nghề đan lát làng Lan Đình đang đối mặt với nhiều thách thức trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự ra đời của đồ nhựa, túi ni lông, máy móc hiện đại đã làm giảm nhu cầu sử dụng các sản phẩm thủ công từ tre. Hoạt động đan lát ở địa phương còn nhỏ lẻ, lao động tham gia chưa nhiều (chủ yếu lúc nông nhàn), công tác giới thiệu, quảng bá còn hạn chế và chưa có đầu ra ổn định.Ảnh: Các cụ già giữ hồn nghề đan lát cả trăm nămĐể bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề đan lát truyền thống, Lan Đình cần có những giải pháp cụ thể:Rà soát và hỗ trợ các hộ gia đình: Nắm bắt số lượng hộ còn duy trì nghề để có chính sách hỗ trợ kịp thời.Cải tiến công cụ và đa dạng hóa sản phẩm: Nghiên cứu, tìm cách cải tiến quy trình, công cụ để nâng cao năng suất và chất lượng. Đồng thời, sáng tạo thêm nhiều loại hình sản phẩm mới, độc đáo, phù hợp với thị hiếu thị trường hiện đại.Tìm đầu ra và quảng bá sản phẩm: Chính quyền địa phương cần có giải pháp cụ thể để tìm kiếm thị trường tiêu thụ ổn định, tổ chức đưa sản phẩm tham gia các hội chợ địa phương và hội chợ thương mại lớn hơn. Đặc biệt, cần đẩy mạnh quảng bá hình ảnh làng nghề thông qua các trang web, phương tiện truyền thông về làng nghề truyền thống.Nâng cao tay nghề và khuyến khích phát triển: Tổ chức các lớp tập huấn, tham quan học hỏi mô hình đan lát điển hình để trao đổi kinh nghiệm, nâng cao tay nghề cho người thợ.Tổ chức các hội thi: Hàng năm, nên tổ chức các hội thi về nghề đan lát, trao giải thưởng xứng đáng cho các cá nhân, tập thể đạt thành tích tốt nhằm khuyến khích, tạo động lực cho họ tiếp tục bảo tồn và gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống của cha ông.Nghề đan lát ở làng Lan Đình không chỉ là một hoạt động mưu sinh mà còn là một phần không thể tách rời trong bản sắc văn hóa của người dân Gio Phong, Gio Linh. Nó là minh chứng cho sự cần cù, khéo léo và khả năng thích nghi của cư dân nông nghiệp. Việc bảo tồn và phát triển làng nghề thủ công đan lát truyền thống mà ông cha đã gây dựng không chỉ là trách nhiệm mà còn là một việc làm ý nghĩa, thể hiện nét văn hóa đặc sắc cần được các thế hệ gìn giữ.Ảnh: Tiếp tục phát huy và gìn giữ truyền thống của làng nghềĐể khám phá và trải nghiệm trực tiếp những tinh hoa của nghề đan lát, cũng như hiểu sâu hơn về lịch sử và văn hóa độc đáo của làng Lan Đình, Sovaba Travel hân hạnh mang đến những tour du lịch Quảng Trị đầy hấp dẫn. Đây là cơ hội tuyệt vời để du khách không chỉ chiêm ngưỡng những di tích lịch sử hào hùng mà còn đắm mình vào không gian văn hóa đậm đà bản sắc, tận mắt chứng kiến đôi bàn tay tài hoa của người nghệ nhân Lan Đình tạo nên những sản phẩm tre đầy tâm huyết. Hãy cùng Sovaba Travel góp phần gìn giữ và lan tỏa vẻ đẹp truyền thống này, để những giá trị văn hóa quý báu của Lan Đình mãi mãi được phát huy và vươn xa hơn nữa!