Bài chòi – một di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc, không chỉ là trò chơi dân gian, mà còn là mạch nguồn văn hóa thấm sâu vào tâm hồn người dân miền Trung, nhất là trong hành trình khai phá phương Nam của các chúa Nguyễn. Ngày ấy, những chòi lính được dựng lên giữa vùng biên viễn, để rồi theo thời gian, biến tấu thành chòi chơi, nơi gửi gắm niềm vui và nghĩa tình xóm làng. Bài chòi không được lưu lại bằng giấy mực, mà sống mãi qua từng lời truyền miệng, qua câu hò, tiếng hát.
Ở Quảng Bình, bài chòi giữ nguyên được cái hồn mộc mạc, dân dã. Không rộn ràng ánh đèn sân khấu như ở các tỉnh Nam Trung Bộ, nơi đây, người dân xem bài chòi như một hội vui dân gian ai cũng có thể tham gia, không kể giàu nghèo, không phân biệt tuổi tác. Trên sân đất rộng, mười một chiếc chòi tre dựng nên như một vòng tròn yêu thương. Một chòi trung tâm dành cho “anh hiệu” người dẫn dắt cuộc chơi bằng những câu hát hóm hỉnh, duyên dáng. Mười chòi còn lại là chỗ ngồi cho người chơi, ai cũng háo hức đợi chờ từng tiếng hô vang từ anh hiệu.

Bộ bài tới gồm 30 lá, chia làm ba pho: Văn, Vạn, Sách. Mỗi lá bài mang một cái tên gợi cảm, gợi hình, nào là Ông Ầm, Thái Tử, nào là Bạch Tuyết... Khi anh hiệu xốc bài, rút một lá và cất cao tiếng hô bằng câu ca dao duyên dáng:
Cử nhơn không đậu, tú tài cũng không – Nhứt Trò!
Cả không gian bỗng chốc rộn ràng. Chòi nào trúng bài, tiếng mõ vang lên giòn giã. Người chơi chỉ cần trúng ba con bài sẽ được hô “tới”, rồi vui vẻ nhận lá cờ đuôi nheo và khay rượu mừng từ tay anh hiệu. Nhưng hơn cả một trò chơi dân gian, bài chòi ở Quảng Bình là nơi chốn để con người bày tỏ tâm tư, sẻ chia tiếng cười, truyền lại ký ức làng quê cho bao thế hệ. Ở đó, mỗi câu hát như nhịp cầu nối quá khứ với hiện tại, kết nối người với người, làm đầy thêm hồn quê đất Việt.

