Điện Voi Ré Huế không chỉ là một công trình kiến trúc cổ, mà còn là bản trường ca bi tráng về lòng trung nghĩa giữa con người và loài voi – những “chiến binh” thầm lặng đã gắn bó với lịch sử triều Nguyễn.
Tên gọi “Voi Ré” bắt nguồn từ một truyền thuyết cảm động vào thế kỷ XVIII, thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Tương truyền, sau khi một dũng tướng Đàng Trong ngã xuống nơi chiến trường, con voi trung thành của ông đã vượt hàng trăm dặm quay về Phú Xuân (nay là Huế), vừa chạy vừa cất tiếng rống ai oán, rồi gục ngã tại đồi Thọ Cương. Người dân thương xót, an táng con voi tại chỗ, dựng mộ và gọi đó là mộ Voi Ré – nơi lưu giữ tiếng rống bi thương cuối cùng của chiến tượng.
Năm 1817, khi giang sơn đã thống nhất, vua Gia Long – từng chứng kiến vai trò quyết định của voi chiến trong nhiều trận đánh đã cho xây dựng Điện Voi Ré trên chính nền mộ xưa. Ban đầu, điện được lập để thờ thần bảo hộ voi, nhưng về sau mở rộng để tưởng niệm bốn con voi dũng mãnh nhất triều Nguyễn: Voi Ré (gắn với truyền thuyết), Voi Ô Long, Voi Bích và Voi Nhĩ (hay còn gọi là Bôn). Không chỉ là phương tiện chiến tranh, những chiến tượng ấy còn là biểu tượng của lòng trung trinh.

Trong số đó, câu chuyện về Voi Ô Long để lại nhiều xúc động. Sau khi chủ tướng qua đời, Ô Long kiên quyết tuyệt thực, rống lên bi phẫn suốt ba ngày rồi chết theo chủ. Những chiến tượng khác như Bảy, Tám, Chín cũng từng thể hiện sự trung nghĩa hiếm có. Cảm kích trước tấm lòng ấy, vua Minh Mạng năm 1825 đã sắc phong cho Điện danh hiệu “Trợ Oai Tượng Võ Linh Ứng Hộ Tượng chi thần”, nâng voi chiến lên hàng thần linh. Từ đó, mỗi năm triều đình đều tổ chức tế lễ hai mùa xuân – thu, cấp ngân sách cho nghi thức trọng thể, biến nơi đây thành biểu tượng văn hóa đặc biệt trong tín ngưỡng cung đình.
Đến năm 1998, Điện Voi Ré Huế chính thức được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Dù không đông khách như Đại Nội hay các lăng tẩm, điện vẫn lặng lẽ hiện diện, như một “chứng nhân” về đội Kinh Tượng – lực lượng voi chiến nhà Nguyễn đã góp phần làm nên hào khí dựng nước của dân tộc.


